Bài viết này “Đức Phật là ai” được trích dịch từ tập sách “Lịch sử Phật giáo Mỹ quốc” của tác giả Rick Fields dày 450 trang này. Sách do Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng dịch.
Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni là ai?
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca chính là bậc Thầy gốc của đạo Phật. Ngài là bậc giác ngộ thấu rõ chân lý của vạn pháp. Thị hiện trong hình tướng của loài người. Ngài đi vào cõi Ta bà để khai sáng Ánh đạo vàng cho nhân gian.
Lịch Sử, Cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Trong kinh kể rằng: một đời trước của Đức Phật Thích Ca, Ngài từng là một vị Thái tử. Trong một lần vào rừng, Ngài nhìn thấy năm mẹ con hổ đang vật vã vì đói. Hổ mẹ quá đói và không còn sữa cho con bú nên kiệt sức chờ chết.
Chứng kiến cảnh đó, Thái tử rất đau lòng và muốn bố thí luôn thân mạng của mình cho hổ đói. Ngài đã đưa đầu mình vào miệng hổ nhưng do đã quá kiệt sức nên hổ mẹ cũng không ăn nổi. Ngài bèn dùng dao rạch thân thể mình cho máu chảy ra đầm đìa. Lúc rạch thân mình như vậy Ngài phát ra lời nguyện: “Trong kiếp này tôi dùng thân máu thịt để bố thí cho năm mẹ con hổ. Và mong rằng trong kiếp vị lai khi thành Phật, tôi sẽ dùng tuệ mạng để cứu cho các vị thoát khỏi luân hồi!”.
Khi phát nguyện xong, máu từ thân Ngài chảy ra đầm đìa và hổ mẹ liếm được máu đó mới có sức để ăn thịt Ngài. Trong kiếp sau này khi Ngài thành Phật, năm mẹ con hổ đói chính là năm anh em ông Kiều Trần Như, năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Khi Ngài vừa thành Phật, người đầu tiên Ngài độ và chứng qua A la hán chỉ sau một bài pháp về Tứ diệu đế của Ngài chính là năm anh em ông Kiều Trần Như.
Phật Bổn Sư Thích Ca và 5 anh em Kiều Trần Như:
Lòng từ bi của Ngài đã trở thành năng lực để Ngài có thể thị hiện vô số thân, bất cứ nào cầu đến là Ngài có thể cứu khổ. Sức mạnh của lòng từ bi đã khiến cho Đức Phật dù trong bao nhiêu kiếp cũng không nhàm mỏi cứu độ chúng sinh. Trong kinh Bồ Tát Giới, đích thân Đức Phật Thích Ca nói: “Ta đã tám nghìn lần đến thế giới Ta bà”.
Theo quan điểm Phật giáo, “cõi Ta bà” chẳng khác gì quán trọ. Nhân loại sống trong cõi này đều giả tạm, vô thường, không thật. Suốt cả cuộc đời chúng ta xoay vòng với sinh, lão, bệnh, tử, bị tiền tài, danh vọng chi phối, bức bách thật khổ não. Tất cả đời sống vật chất cho dù làm vua, quan, giàu sang đến cỡ nào đi nữa nhưng khi ra đi không mang được gì cả, cho nên mới gọi là không thật. Đức Phật đã đến cuộc đời của chúng ta từ vô thủy kiếp, không nhàm mỏi mặc dù vừa dẫn chúng sinh ra con đường sáng, chúng sinh đã vượt khỏi tay Ngài chạy về con đường tối. Nhưng sức mạnh của lòng từ bi vẫn khiến Ngài có đủ an nhẫn để dẫn dắt cứu độ chúng sinh.
TÌM HIỂU DANH HIỆU CỦA ĐỨC PHẬT: NAM – MÔ BỔN SƯ THÍCH – CA MÂU – NI PHẬT
Từ Nam – mô trong câu Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật có 6 ý nghĩa sau: kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng. Trong đó từ kính lễ, quy y và quy mạng là ba từ thường dùng nhất.
Bổn nghĩa là căn nguyên, đầu tiên, cội nguồn. Sư nghĩa là thầy dạy học.
Là theo tiếng Phạn. Còn theo Tiếng Trung Hoa nghĩa là Năng Nhân.
Nghĩa là Tịch Mặc: Tịch Mặc được hiểu là thanh tịnh.
Tức là Giác hoặc Trí. Nói cho đúng tiếng Phạn là Buddha (Phật – đà). Theo tiếng Trung nghĩa là Giác Giả (bậc đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn).
Nghĩa là tự giác ngộ hoàn toàn do phước huệ và công phu tu hành. Khác với phàm phu là những người còn mê muội, bị luân hồi trong cõi trần lao, khổ ải.
Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ như mình.
Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn đầy đủ cho mình và cho người. Những bậc Bồ tát, tuy đã giác ngộ cho mình và cho người, nhưng công hạnh chưa viên mãn, nên chưa gọi được là “Giác hạnh viên mãn”. Chỉ có Phật mới được gọi là Giác Hạnh Viên Mãn.
Chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đã tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, chứ không phải là một danh từ riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu hành được chứng quả như đã nói trên đều được gọi là Phật cả.
Tên Phật Thích Ca có hai nghĩa là Năng nhân và Tịch mặc:
“Nhân” ở đây là nhân đức, nhân từ, và “năng” là năng lực, là sức mạnh. Vậy “Năng nhân” có nghĩa là “sức mạnh của lòng từ bi”.
Sức mạnh này đã trở thành một năng lực vĩ đại để Đức Phật Thích Ca có thể cứu khổ cho chúng sinh một cách vô điều kiện. Đối với Đức Phật Thích Ca, tình thương Ngài dành cho chúng sinh luôn bình đẳng. Và trở thành sức mạnh có thể chuyển hóa được mọi khổ đau cho chúng sinh, giúp chúng sinh đạt được giác ngộ.
“Tịch mặc” ở đây được hiểu là “trí tuệ”. “Tịch” chính là có trí tuệ thấu đáo ngoại cảnh. “Mặc” nghĩa là có trí tuệ để đối diện với chính nội tâm mình. Trong cuộc sống này, những thành bại, thịnh suy, vinh nhục đều không làm dao động được Đức Phật. Ngài đã tu khổ hạnh 6 năm trong núi tuyết. Trong 6 năm ấy, Ngài đã đối diện với đói, rét, với lời chê bai, chọc tức. Tới độ chim đến làm tổ trong tai Ngài vẫn ngồi im bất động. Khi Ngài chứng được thần thông, Ngài còn nghe thấy cả tiếng chim cãi nhau trong tai nhưng Ngài vẫn ngồi bất động.
Chúng ta lại luôn làm nô lệ cho ngoại cảnh, nô lệ cho cái thân thể này. Chúng ta ham ăn, ham ngủ, ham thụ hưởng, tức là chúng ta đang làm nô lệ cho cái thân và ngoại cảnh. Cảnh thịnh thì ta vui, cảnh suy thì chúng ta buồn.
Chúng ta giống như những con rối trên sân khấu cuộc đời: “Tâm mình là con rối – để cho đời sớm tối giật dây”. Còn Đức Phật Thích Ca, trong 6 năm tu tập, mỗi bữa Ngài chỉ ăn một hạt mè. Dĩ nhiên cái đói khát đó không dẫn Ngài đến sự giác ngộ nhưng cũng phải chứng minh được nghị lực kiên cường của Ngài.
Kinh Đức Phật dạy rằng: “Chiến thắng trăm quân chưa phải là chiến công oanh liệt. Người chiến thắng chính mình mới là người oanh liệt nhất”.
Trong cuộc sống thế gian, có thể chúng ta đánh gục rất nhiều đối thủ trên thương trường, trong cơ quan nhưng lại không đánh gục được ham muốn. Người anh hùng nhất là người chiến thắng được chính mình. Khi đối trước mọi biến động của ngoại cảnh, tâm Ngài vẫn bất động cho nên chúng ta gọi Ngài là Tịch.
Chữ “Mặc” mang nghĩa nội tâm. Trong đêm thành Đạo của Đức Phật, khi đó có đủ các loại ma: ma sân, ma tham, ma danh vọng, ma ái… xuất hiện. Gọi là ma không phải là ma bên ngoài mà chính là tâm của người trước khi thành đạo. Nhưng Đức Phật không để các trạng thái tâm như tham – sân – giận – ghét – ái dục – vô minh chi phối.
Kinh Mười hai nhân duyên có vẽ hình ảnh một bà già mù, còng lưng dẫn dắt chúng ta. Không phải một kiếp mà hàng bao nhiêu kiếp. Bà già ấy trong Kinh gọi là Vô minh. Bà già ấy đã mù nhưng lôi chúng ta hết kiếp này sang kiếp khác, quanh quẩn trong sáu đạo luân hồi không ra khỏi được.
Lòng từ bi của Đức Phật Thích Ca ban trải khắp cứu độ muôn loài, trí tuệ của Ngài rực sáng để bình lặng trước cuộc đời. Như vậy danh hiệu của Đức Phật Thích Ca gồm cả hai khía cạnh Từ bi và Trí tuệ. Đức Phật nào cũng sẽ có đủ hai phần như vậy.
Cả cuộc đời của Ngài là tấm gương sáng về Từ bi và Trí tuệ. Là đệ tử của Phật, chúng ta phải thừa hưởng được gia tài Ngài để lại cho chúng sinh. Đó không phải là kho báu thế gian thông thường mà chính là Từ bi và Trí tuệ. Gia tài ấy mỗi chúng ta đều có nhưng vì chúng ta quên mất không biết sử dụng nên chúng ta vẫn mãi quanh quẩn trong vòng khổ luân hồi mà thôi!
Mời quý sư Thầy, sư Cô, Phật tử xem các tác phẩm tượng Phật Bổn Sư Thích Ca do Buddhist Art sáng tác TẠI ĐÂY
Lịch sử của đức Phật từ trước đến này vốn không có sự đồng nhất. Có nơi lạm dụng văn chương hoa mỹ, có phần quá đáng. Vì vậy đối với vấn đề chân tướng của ngài ngày nay chúng ra cũng rất khó để xác định rõ về hình trạng. Nay chúng tôi chỉ lấy phần tương đối thuật lại đôi nét cơ bản cuộc đời của đức Phật.
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sinh của đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng Năm Dương lịch. Vesak cũng là tên của một ngày có ý nghĩa trọng đại nhất đối với hàng phật tử khắp thế giới. Đức Phật sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak, vào buổi sáng, trong thành Kapilavastu (Ca-ty-la-vệ) gần biên thùy giữa đông bắc Ấn Độ và Népal. Đó là Thái tử Siddatha Gotama. Cha của ngài là Hoàng đế Tịnh Phạn (Cuddhodana) họ Cù Đàm (Gotama) và mẹ của Ngài là Hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi) Ngài tên là Siddhartha Gotama.
Mẹ của ngài, là hoàng hậu Ma Da, trong một kiếp quá khứ khi còn là một thiên nữ ở cung trời Đâu Suất, đã cầu nguyện tha thiết rằng: “sau này bà sẽ được tái sinh nơi cõi người và trở thành người mẹ sinh hạ ra một vị Phật”.
Hoàng hậu Ma Da là người mẹ vĩ đại nhất với lời nguyện cầu tha thiết trong tiền kiếp đã sinh ra thái tử Tất Đạt Đa. Bà là người phụ nữ cao quý nhất đã có công sinh ra một bậc vĩ nhân kiệt xuất của nhân loại, để chúng ta có được đạo Phật mà nương theo, có được Chính pháp mà tu tập, hướng đến sự giác ngộ và giải thoát ra khỏi luân hồi sinh tử.
Trong dòng tộc Thích Ca, vua Tịnh Phạn là người đứng đầu gia tộc và cũng là người đứng đầu trị vì đất nước, nơi ấy ngày xưa gọi là nước Ca Tỳ La Vệ thuộc phía Nam. Vua Tịnh Phạn kết hôn cùng với công chúa Ma Da là người em gái của Vua Thiện Giác dòng tộc Câu Lợi ở phương bắc. Hoàng hậu Ma Da là bậc mẫu nghi của nước Ca Tỳ La Vệ, dung mạo tuy không phải là tuyệt thế, nhưng tâm hồn bà trong sáng như hoa sen. Bản thân hoàng hậu cũng thường làm việc bố thí và cứu giúp những người nghèo khổ ở khắp nơi, khiến cho người dân trong nước ai ai cũng đều mến phục đức hạnh của bà.
Từ khi kết hôn cùng với vua Tịnh Phạn đã trải qua hơn hai mươi năm vẫn chưa có thái tử để nối ngôi. Vì thế hoàng hậu thường khuyên vua Tịnh Phạn làm nhiều điều hiền thiện, tạo phúc cho dân. Thế rồi, cho đến vào một đêm vắng lặng, lúc thiếp đi, trong một giấc mơ, bà thấy có con voi trắng sáu ngà từ không trung bay đến, đi vào hông bên phải của bà. Hoàng hậu giật mình tỉnh giấc, kể lại giấc mộng. Các quan đại thần đều đoán rằng đây là điềm lành, chắc chắn hoàng tộc sắp có tin vui. Quả nhiên, từ đó hoàng hậu mang thai Thái tử. Vua Tịnh Phạn rất vui mừng cùng thần dân mơ tiệc ăn mừng.
Hoàng hậu mang thai đã được mười tháng, sắp đến ngày hạ sinh, bà xin phép vua cho Hoàng hậu về nhà mẹ đẻ để hạ sinh theo đúng phong tục thời bấy giờ. Vua Tịnh Phạn đã đích thân dẫn đoàn tùy tùng đi hộ tống Hoàng hậu về quê hương. Hôm đó là ngày trăng tròn theo lịch Ấn Độ, gió tháng Tư hiu hiu thổi, khí trời ấm áp. Khi đoàn người đi ngang qua vườn Lâm Tỳ Ni tại vươn quốc Ca Tỳ La Vệ, ngày nay thuộc nước Nepal (thuộc thành kapilavastu) cảnh vật nơi đây rất tuyệt đẹp, mọi người ai cũng thấy dễ chịu. Hoàng hậu cho dừng kiệu để vào vườn nghỉ ngơi một chút. Lúc này là mùa xuân, hạ giao mùa, trong vườn Lâm Tỳ Ni hoa đang nở rộ, muôn chim đua hót. Hoàng hậu ngồi cạnh hồ nước chiêm ngưỡng cảnh vật thiên nhiên, rồi bà đứng dậy dạo quanh vườn hoa, đến cây hoa vô ưu có cành lá sum suê nở rộ. Hoàng hậu đưa tay lên định ngắt lấy một nhành hoa, bỗng ngay lúc ấy Thái tử chào đời. Lúc ấy nhằm ngày mồng 8 tháng 4 (ÂL).
Ngay sau đó có một cơn mưa nhẹ sau đó đã gội rửa cho cả người mẹ và hoàng tử. Cùng ngày đó, bảy sinh mệnh khác cũng được xuất sinh, lần lượt là cây bồ đề, công chúa Da Du Đà La (Yashodhara), con ngựa Kiền Trắc (Kantaka), người đánh xe ngựa Sa Nặc (Channa), con voi Kaludayi (người bạn thời thơ ấu của hoàng tử), và bảy kho báu vô chủ.
Hoàng tử được đưa trở về kinh thành ngay đêm hôm đó. Năm ngày sau, hoàng tử được đặt tên là Tất Đạt Đa (Siddhartha), nghĩa là “người mà sẽ đạt được mục đích của mình”. Rất nhiều nhà thông thái đã đến để gặp mặt và cầu chúc cho vị hoàng tử mới sinh, trong số đó có đạo sĩ A Tư Đà, vốn là thầy dạy học cũ của nhà vua và là một người tu hành khổ hạnh đã đạt được nhiều thành tựu.
Nhà vua cảm thấy rất vinh dự bởi chuyến thăm của đạo sĩ A Tư Đà (Asita), nên cho người mang đứa trẻ đến bên vị đạo sĩ để đứa bé tỏ lòng tôn kính với ông. Ngay lập tức, đạo sĩ A Tư Đà đứng dậy và nhận ra ngay những đường nét trên cơ thể hoàng tử báo hiệu một khuynh hướng tâm linh và tôn giáo. Với năng lực siêu thường, ông nhìn thấy sự vĩ đại trong tương lai của vị hoàng tử mới sinh và chào đón với những cái siết tay thật chặt.
Nghe thấy như vậy đức Vua Tịnh Phạn vô cùng sung sướng với ý tưởng con trai mình sẽ trở thành một thủ lĩnh vĩ đại. Do đó, nhà vua vô cùng chiều chuộng con trai, để ngăn ngừa Thái tử nhìn thấy những điều khiến cậu chuyển sang khuynh hướng tôn giáo. Mọi người biết về dấu hiệu này đều biết rằng Tất Đạt Đa rất xuất chúng, đặc biệt là Tịnh Phạn Vương. Nhưng nhà vua quan sát sự trưởng thành của đứa con trai nhỏ tuổi ham hiểu biết và lo lắng về những lời tiên tri. Ông lo ngại, một ngày nào đó, Thái tử sẽ rời bỏ Hoàng cung và trở thành một nhà lãnh đạo tôn giáo, chứ không trở thành một thủ lĩnh của bộ tộc Thích Ca.
Sau khi hạ sinh được bảy ngày thì Hoàng hậu Ma Da qua đời, để lại vị trí của bà cho người em gái tên là Kiều Đàm Di (Mahaprajapati), thay thế hoàng hậu san sóc nuôi dưỡng hoàng tử với sự yêu thương, chăm sóc hết mực. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng trí tuệ của hoàng tử đã vượt người tầm thường, tất cả các học thuyết của thế gian như: kỹ nghệ, điển tích, văn chương, thiên văn, lịch số, và các môn võ nghệ như bắn cung, đua ngựa...sức khỏe hơn người, không có bất kỳ môn nào mà hoàng tử không thông suốt, khiến mọi người đều kính nể không ai là không hàng phục. Trên từ đức vua Tịnh Phạn dưới đến dân thường, tất cả mọi người đều yêu mến và cho rằng sau này hoàng tử sẽ là người chinh phục bốn phương, thống nhất bờ cõi. Khi đó nhà vua đã cho gọi các nhà hiền triết đến để dự đoán tương lai của hoàng tử. Họ đều nói rằng hoàng tử Tất Đạt Đa sẽ quyết định theo lối tu hành khổ hạnh nếu hoàng tử nhìn thấy các dấu hiệu của sinh, lão, bệnh, tử hoặc gặp một nhà tu hành khổ hạnh.
Đến năm 19 tuổi Hoàng tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La và hạ sinh được một người con đặt tên là La Hầu La. Tuy thân ở tại trần gian nhưng tâm hoàng tử không nhiễm dục lạc, mọi quan niệm và cảm tính đều hoàn toàn khác với thế tục. Sau những lần hoàng tử dạo chơi bốn của thành nhìn thấy cảnh tượng giữa người và vật tranh giành với nhau, tang tóc, rên rỉ, khổ đau...Hoàng tử suốt đêm không ngủ ngồi tư duy, đem lòng thương chúng sinh phát khởi mạnh mẽ, luôn nghỉ đến nỗi khổ đau của chúng sinh những nơi Ngài đi qua. Đây là động lực chính khiến Ngài phát sinh tu đạo.
Ngài trưởng thành trong một cung điện xa hoa. Khi còn thơ ấu, đặc quyền đã cho phép ngài hưởng thụ mọi sự nuông chiều. Nhưng, một ngày, Ngài đã từ bỏ tất cả để có được trí tuệ tận cùng. Khi Ngài giác ngộ được rằng vạn vật là vô thường, có rồi không, thành rồi bại, có sinh có tử, có già, có bệnh. Có bao nhiêu vinh hoa, phú quý, khoái lạc vật chất dẫy đầy trước mắt chẳng qua là một bã hư vô, Ngài mới nhất định xuất gia, bỏ hẳn thế sự, để đi tìm đâu là sự thật, đâu là tịnh lạc. Sau khi quan sát và cảm thông về nổi khổ đau cùng cực của chúng sinh. Vào nửa đêm mồng 7 tháng 2 lúc mọi người an giấc nồng bốn bề yên tỉnh, hoàng tử bèn sai người giữ ngựa tên là Xa Nặc đánh ngựa kiền trắc vượt khỏi cung thành đến phía đông nước Lamma vào rạng sáng mùng 8 tháng 2, ngài đã cởi bỏ mũ báu cùng áo cẩm bào cạo bỏ râu tóc trở thành vị Sa môn. Năm ấy Ngài 29 tuổi, từ biệt ra đi đã dũ sạch nợ trần, để đi tìm một con đường giải thoát cho nhân loại.
Suốt sáu năm khổ hạnh, hy sinh, chịu đựng muôn ngàn đau khổ với một tấm lòng sắt đá, kiên trì, với một niềm tin vô biên và luôn luôn xả thân để phụng sự. Đây là cuộc đời phấn đấu mà sức phàm khó lòng chịu nổi. Ngài ngày đêm siêng năng chiến đấu ma quân nhưng chỉ nhọc nhằn không đạt được kết quả. Ngài nhận thấy pháp tu khổ hạnh chỉ là nhọc công vô ích, bèn xuống sông Ni Liên Thiền tắm gội thọ bát sữa của nàng Tu Xà Đề dâng cúng khi thọ dụng bát sữa xong sức khỏe lần hồi phục, Ngài đã thấu suốt các pháp thế gian và đã dứt trừ các pháp đó, rồi một mình thẳng tiến đến cây Tất Bát La kết tòa ngồi kiết già và phát nguyện rằng: “tôi không chứng quả vị vô thượng bồ đề thì dù có tan thân mất mạng quyết không rời khỏi chỗ này”. Sau khi phát nguyện xong Ngài nhập vào kim cang định, dùng lực kim cang tam muội chặt đứt vô minh của chi đầu tiên trong 12 nhân duyên, tức là ngài đã giải quyết xong vô minh đoạn trừ sinh tử ưu bi khổ não không còn nữa.
Vào ngày 8 tháng 12, sao mai vừa ló dạng thì Ngài đã dứt sạch sinh tử, nhập vào trạng thái an tĩnh chứng đắc quả vị Chính Đẳng, Chính Giác. Quả này là kết tinh cuối cùng của một lòng tự tin, tự lực, tự giác, chớ không phải nhờ ở một quyền lực siêu nhiên nào giúp đỡ. Ngài đã diệt được bao điều chi phối của ngoại cảnh đối với thân tâm để trở thành thanh tịnh chứng pháp, lĩnh hội rõ ràng chân tính của một sự vật: Ngài đã là Toàn Giác, thành Phật. Lúc bấy giờ Ngài 35 tuổi. Từ đó người ta gọi Ngài là đức Phật Cồ Đàm (Gotama), một vị Phật trong trường chi vô lượng Phật quá khứ và vị lai. Như vậy vị trí của đức Phật Thích Ca Mâu Ni thật là độc nhất vô nhị, ngay trong tiền kiếp của thời hiện đại của chúng ta, và ở trong thế giới mà hiện chúng ta đang sống. Từ nơi vị trí Phật độc nhất vô nhị này, trong Tăng Chi Bộ Kinh tập I trang 29 nói rõ thêm rằng:
"Một người, này các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có đặt ngang hàng, bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc A La Hán, Chính Đẳng giác; một người này khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tự, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có ngang bằng, không có đặt ngang bằng bậc Tối thắng giữa các loài hai chân".
Trước tiên, chúng ta cần nhấn mạnh đến vị trí có một không hai của đức Phật, vị trí này cho chúng ta thấy không thể có một đức Phật thứ hai trong suốt hiền kiếp đức Phật tại thế, vị trí này còn giúp chúng ta nhận rõ những đóng góp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho nhân loại, cho thế giới này thật là đặc biệt vô song, có vậy, chúng ta mới đánh giá đúng đắn sự xuất hiện rất đặc biệt của vị Bổn sư của chúng ta.
Cho nên trong Tăng Chi Bộ Kinh tập I, trang 37 ghi chép: "Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ kheo, không có được trong một thế giới có hai vị A La Hán Chính đẳng giác, không trước không sau, xuất hiện một lần. Sự kiện này không xảy ra. Và sự kiên này có xảy ra, này các Tỳ kheo. Trong một thế giới, chỉ có một vị A La Hán Chính đẳng giác, xuất hiện, sự kiện này có xảy ra".
Trong kinh Hoa Nghiêm có đoạn viết: “Sau khi thành đạo ngài cảm thán nói rằng: Lạ thay! Lạ thay! Nào hay tất cả chúng sinh đều có đầy đủ đức tính trí huệ Như Lai, bởi do ngu si mê hoặc mà không thấy không biết... Ta nay sẽ đem thánh đạo giáo hóa khiến cho chúng sinh dứt hẳn vọng tưởng, một khi vọng tưởng dứt trừ tất sẽ chứng được vô lượng trí tuệ của Như Lai.”
Như vậy thì lễ Vesak không những là kỷ niệm ngày Giáng sinh mà cũng là ngày đắc đạo của đức Phật. Khi đã được hoàn toàn sáng suốt và đắc quả Chính Đảng, Chính Giác rồi, Ngài gia tâm đi hoằng hoá pháp mầu để rọi sáng dẫn dắt kẻ khác. Được hoàn toàn giải thoát, Ngài gia tâm giải thoát chúng sinh bằng một lối đường Trung Đạo.“Mở rộng cửa chân lý cho những ai muốn tìm chân lý; rót thẳng niềm tin tưởng vào tai những ai muốn tìm niềm tin tưởng.” Đó là câu bất hủ mà ngài đã thốt lên lần đầu tiên, khi bắt đầu xứ mạng hoằng dương đạo pháp của Ngài.
Sau khi thành đạo, ngài liền đi đến vườn lọc uyển xứ Ba La Nai tìm các vị đồng tu với ngài trước đây để thuyết pháp. Đức Phật vì năm anh em Kiều Trần Như (1- Kiều Trần Như; 2- Kiều Trần Na; 3- Kiều Trần Nhi; 4- Kiều Trần Thi; 5- Kiều Trần Nga) nói bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế. Ngài dạy người xuất gia có hai thứ chướng ngại là sinh tâm đắm trước cảnh dục lạc không vượt thoát đó là nguyên nhân không thể giải thoát, và không suy nghỉ chín chắn cội nguồn khổ đau của bản để cầu giải thoát, cho nên không thể đạt được sự giải thoát. Vì vậy người xuất gia cần phải xa lìa hai món chấp trước đó mới là trung đạo, rồi siêng năng tu tập có thể đạt đến đạo quả Niết bàn. Năm vị này đều được khai ngộ, và trở thành năm vị đầu tiên của Phật. Đây là móc son lịch sử khởi đầu cho công cuộc hoằng dương chính pháp của ngài và cho mãi về sau những đệ tử chân chính của ngài luôn ghi nhớ bài pháp này và cũng là nền tảng cho hệ thống giáo lý của đức Phật. Trong Tương Ưng bộ kinh V, chương 12, phẩm II, kinh chuyển pháp luân, trang 611... “Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp Tứ diệu đế, thành kiến me lầm tan vỡ, trí tuệ siêu thoát xuất hiện, năm vị này được giác ngộ, chứng nhập quả vị A La Hán. Đó là năm vị đầu tiên của đức Phật thích Ca.” Như vậy Tam bảo được hình thành từ đây. Phật bảo là đức Phật thích Ca; Pháp bảo là bài pháp Tứ Diệu Đế; Tăng bảo là năm anh em Kiều Trần Như.
Vậy chúng ta có thể nói rằng Tăng đoàn Phật giáo đã được thành lập ngay vào năm thứ nhất kể từ lúc đức Phật chứng đạo. Sau đó, Ngài tiếp tục hóa độ và thâu nhiếp tôn giả Yasa cùng 54 người khác gia nhập Tăng đoàn tại thành phố Ba La Nại. Khi Tăng đoàn lên đến 60 vị, đều là A La Hán, đức Phật khuyên họ chia nhau đi khắp nơi để hoằng pháp lợi sinh. Đây là hạt giống đầu tiên hết sức nhỏ bé mà Ngài đã gieo, để rồi về sau này nở muôn ngàn bốn phương: Là Giáo hội Tăng già. Đó cũng chính là giai đoạn Ngài khai sinh và xây dựng Tăng đoàn, từng người một, từng ngày một, để đặt nền móng nhưng đồng thời cũng thiết kế và hoàn thiện một công cụ thiện xảo với chức năng, thay Ngài sau này, duy trì bánh xe Chính pháp được quay đều, và quay bền vững, trong không gian vô tận và thời gian vô cùng.
Trải qua 45 năm, đức Phật đã đi khắp xứ Ấn Độ rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác. Hễ chỗ nào có chân Ngài giẫm đến là ánh đạo vàng bừng tỏa huy hoàng.
Mỗi ngày Ngài theo một thời dụng biểu, một chương trình nhất định, không bao giờ xao lãng, giải đãi, từ khi trẻ cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng. Trong năm có mười hai tháng, thì hết tám tháng Ngài giãi dầu phong sương khắp chốn, không quản gì thân. Ngài tế độ chúng sanh như vậy suốt bốn mươi lăm năm trường.
Một hôm, khi cảm thấy sức đã kiệt, ngày lâm chung sắp đến, Ngài gọi tất cả đệ tử về và nói rằng: “Kiếp sống thật là ngắn ngủi; Thầy nay tuổi đã già. Thầy sắp xa lìa các con! Từ lâu vẫn nương tựa nơi Thầy. Các con hãy cố gắng chuyên cần tinh tấn, hãy kỹ càng thận trọng và luôn luôn giữ một lòng đạo đức cao cả, với những tư tưởng trong sạch siêu mẫn, các con hãy giữ gìn bản tâm cho chu đáo. Nhờ tôn chỉ và kỷ luật này, với một đời sống tích cực hoạt động đạo đức, các con sẽ được thoát khỏi vòng sinh tử, tử sinh và chấm dứt được phiền não, đau khổ. Vạn vật cấu tạo là vô thường. Các con hãy cố gắng lên !.
Năm ấy đức Phật thọ 80 tuổi. Ngài trở về Kusinara, là một làng nhỏ bé xa xôi, nơi đây êm ái và an tịnh. Ngài tịch diệt, thân nằm giữa hai cây long thọ (Sala), hôm ấy đúng ngày Rằm vào tháng Vesak. Như thế Vesak là ngày kỷ niệm gồm ba: Giáng sinh, Thành Đạo, và Tịch Diệt (Niết bàn) của đức Phật. Ngày nay phật tử khắp hoàn cầu cử hành cuộc lễ gồm ba phần đã nêu ở trên với một niềm tin tuyệt vời và một đạo tâm chơn thành.
Để kỷ niệm ngày đức Phật giáng trần và cũng là ngày đắc Đạo sau sáu năm khổ hạnh và 49 ngày tịnh toạ trên mớ cỏ khô dưới cội Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddagaya). Hàng năm cứ gần đến ngày Rằm tháng Tư Âm lịch là toàn thể các tín đồ Phật giáo thuộc các giáo hội trên khắp thế giới nao nức tổ chức kỷ niệm ngày Đản sinh. Tại Việt Nam các chùa, viện thuộc Bắc tông, Nam tông hay Đại thừa và Tiểu thừa, Mật tông, hay Thiền tông đều tổ chức trọng thể và trang nghiêm. Để nhắc nhở người con Phật ôn lại những lời vàng ngọc răn dạy tinh hoa của đức Thế Tôn, làm kim chỉ nam cho đời sống hiện tại cho mỗi người trên trần gian này. Đây là thông điệp của đức Phật đi vào cuộc đời, làm cho con người hiểu được bản chất của kiếp sống là vô thường, là đau khổ, từ đó thúc giục con người sớm theo lời dạy của Ngài tu hành để được giác ngộ và giải thoát.