Dư luận về biến đổi khí hậu có mối liên hệ với một loạt các biến số rộng, trong đó bao gồm tác động của các yếu tố xã hội nhân khẩu học, chính trị, văn hóa, kinh tế và môi trường[3] cũng như phạm vi đưa tin của phương tiện truyền thông[4] và sự tương tác với các tin tức và phương tiện truyền thông xã hội khác nhau.[5] Dư luận quốc tế về biến đổi khí hậu cho thấy phần lớn đều coi cuộc khủng hoảng này là một trường hợp khẩn cấp.

Sự kết hợp giữa Âm lịch và các tiết trong Dương lịch tạo nên Âm – Dương lịch

Các nền văn minh Babylon, Hi Lạp, Ai Cập đã từng kết hợp lịch Mặt Trăng và lịch Mặt Trời. Người ta đã xác định được một chu kỳ 8 năm với 5 năm có 12 tháng và 3 năm có 13 tháng. Năm 432 trước Công nguyên, nhà thiên văn Meton nổi tiếng của Hy Lạp phát hiện ra một điều - từng được giới thiên văn học Trung Hoa biết tới từ lâu: chính 19 năm thời gian của Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời khớp đúng với 235 tháng giao hội của Mặt Trăng chuyển động quanh Trái Đất.

Các nhà khoa học cổ đại Trung Quốc kết hợp Âm lịch với các điểm tiết trên quỹ đạo chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời, tạo nên Âm – Dương lịch đang được sử dụng ở một số nước châu Á. Năm Dương lịch dài hơn năm Âm - Dương lịch 10 – 11 ngày. Trung bình thời gian 3 năm Dương lịch dài hơn 3 năm Âm - Dương lịch 32 – 33 ngày. Để cho năm Âm - Dương lịch gần trùng hợp với năm Dương lịch và phù hợp với chu kì của năm thiên văn, người ta đặt ra năm nhuận Âm - Dương lịch có 13 tháng. Cứ 19 năm có 7 lần nhuận Âm - Dương lịch. Quy tắc tính năm nhuận của Âm - Dương lịch là lấy số năm Dương lịch chia cho 19, nếu số dư là 0, 3, 6, 9, 11, 14, 17 thì đó là năm nhuận. Quy tắc này không phải là quy ước chủ quan của người làm lịch mà dựa trên quy luật tự nhiên của hệ thống thiên văn. 12 tháng Âm - Dương lịch tương ứng với 12 trung khí để cho năm Âm – Dương lịch không bị lệch với thời tiết, khí hậu. Nếu trong khoảng giữa hai Đông chí chỉ có 12 điểm sóc (giao hội) tương ứng với 12 tháng âm thì năm đó không có tháng nhuận. Còn nếu trong khoảng thời gian này có 13 điểm sóc thì sẽ xuất hiện một tháng âm dư ra không tương ứng với trung khí nào và tháng đó sẽ là tháng nhuận. Nghĩa là tháng được chọn làm tháng nhuận Âm - Dương lịch là tháng không có trung khí (không có điểm khởi đầu của cung Hoàng đạo), chỉ có 1 tiết khí. Tháng 11 Âm – Dương lịch luôn chứa trung khí có tên là Đông chí, lịch Can chi của Trung Quốc đặt tên tháng 11 là Tí, đây là cơ sở để đánh số các tháng khác.

Tên chi theo lịch Can chi và trung khí của tháng Âm – Dương lịch như sau:

Tính các điểm sóc thì biết được các ngày trong tháng, tính các trung khí để biết tháng đó là tháng mấy và có tháng nhuận trong năm hay không. Việc tính tháng nhuận Âm - Dương lịch rất phức tạp bới nó còn phụ thuộc lực tương tác giữa các thiên thể trong hệ Mặt Trời chứ không chỉ có 3 thiên thể Trái Đất, Mặt Trăng, Mặt Trời. Các lực này gây nhiễu động cho các chuyển động của Mặt Trăng và Trái Đất. Theo tính toán của các nhà làm lịch, các năm và tháng nhuận Âm - Dương lịch tiếp theo là năm 2025 (Ất Tị) nhuận tháng 6; năm 2028 (Mậu Thân) nhuận tháng 5; năm 2031 (Tân Hợi) nhuận tháng 3. Còn theo thư tịch cổ “Tam nguyên cửu vận” của người Trung Hoa thì các năm nhuận tiếp theo đó là năm 2033 (Quý Sửu) nhuận tháng 11; năm 2036 (Bính Thìn) nhuận tháng 6; năm 2039 (Kỉ Mùi) nhuận tháng 5; năm 2042 (Nhâm Tuất) nhuận tháng 2. Kết quả này có thể đúng với phương thức tính toán hiện đại cho Âm – Dương lịch áp dụng ở Việt Nam, nhưng cũng có thể sai lệch một thời điểm nào đó vì Trung Quốc xác định thời gian theo múi giờ số 8, Việt Nam xác định thời gian theo múi giờ số 7.

Tóm lại, Âm – Dương lịch dựa trên cơ sở khoa học là sự kết hợp lịch theo tuần Trăng và lịch theo chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời. Sự biến đổi thời tiết theo mùa khi hậu phụ thuộc vào chu kì chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời, được thể hiện qua các điểm “tiết” tương ứng với các cung Hoàng đạo trong quá trình chuyển động và trùng khớp với một ngày Dương lịch hàng năm. Trên quỹ đạo chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời có 12 điểm trung khí, tương ứng với 12 tháng trong năm. Năm nhuận Âm – Dương lịch là năm có 13 tháng, trong đó có 1 tháng nhuận không chứa trung khí. Tháng nhuận này vừa đảm bảo chu kì chuyển động của Mặt Trăng quanh Trái Đất, vừa có ý nghĩa hiệu chỉnh thời gian của năm Âm – Dương lịch tiệm cận với chu kì chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời. Tháng nhuận không ảnh hưởng đến sự biến đổi thời tiết trong mùa khí hậu.

Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du có câu “Thanh minh trong tiết tháng Ba, lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Thanh minh là một tiết khí thường vào tháng Ba Âm – Dương lich, nhưng năm Quý Mão 2023, tiết Thanh minh lại là rằm tháng 2 nhuận. Dân gian cũng còn truyền lại, tháng Ba có rét Nàng Bân, nghĩa là trong tháng Ba Âm – Dương lịch vẫn còn có thể có gió mùa Đông Bắc và rét. Tần suất gió mùa Đông Bắc ở nước ta giảm và yếu hẳn từ sau tiết Cốc vũ (mưa rào) vào 20/4 Dương lịch. Năm nay, trung khí Cốc vũ là ngày 01/3 Âm – Dương lịch. Vậy nên trong tháng Ba Âm – Dương lịch, có chăng chỉ còn một vài đợt gió mùa Đông Bắc yếu mang đến không khí mát mẻ trước khi bước vào những ngày hè nóng nực.

1. Nguyễn Trọng Hiếu, Phùng Ngọc Đĩnh (2004). Địa lí tự nhiên đại cương 1. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.

2. Đặng Duy Lợi, Nguyễn Thị Kim Chương, Đặng Văn Hương, Nguyễn Thục Nhu (2005). Địa lí tự nhiên Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.

3. Trần Tiến Bình (2014). Tính tháng nhuận trong âm lịch như thế nào. https://vnexpress.net/.

Thạc sĩ Bùi Văn Năm Trưởng phòng Thanh tra và Đảm bảo chất lượng; Giảng viên chính môn Địa lí

Dương lịch và nhuận Dương lịch

Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời theo một quỹ đạo elip gần tròn từ Tây sang Đông, với vận tốc trung bình 29,8 km/s. Mặt Trời nằm ở một trong hai tiêu điểm của quỹ đạo elip. Hằng năm, ngày 3 tháng 1 Trái Đất di chuyển đến điểm gần Mặt Trời nhất, gọi là điểm cận nhật, cách Mặt Trời 147 triệu km, lực hấp dẫn tăng, vận tốc của Trái Đất đạt 30,3 km/s. Ngày 4 hoặc 5 tháng 7, Trái Đất ở vị trí xa Mặt Trời nhất, gọi là điểm viễn nhật, cách Mặt Trời 152 triệu km, vận tốc chuyển động là 29,3 km/s.

Chiều dài quỹ đạo chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời là 940 triệu km. Trái Đất chuyển động một vòng hết 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây (hay 365,2422 ngày). Thời gian Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời được 1 vòng gọi là một năm thiên văn. Năm Dương lịch, có số tròn là 365 ngày. Như vậy sau 4 năm Dương lịch, Trái Đất phải chuyển động thêm gần 1 ngày nữa mới trở về vị trí ban đầu, nên cứ 4 năm Dương lịch có 1 ngày nhuận. Qua nhiều lần cải cách lịch, năm 1582 trên cơ sở điều chỉnh lịch của Julius Caesar, Giáo hoàng Gregorio XIII quy định Dương lịch như ngày nay, gồm các tháng có 31 ngày là tháng 1, 3, 5, 7, 8, 10, 12; các tháng có 30 ngày là tháng 4, 6, 9, 11; riêng tháng 2 chỉ có 28 ngày, những năm nhuận dương lịch có 29 ngày. Năm nhuận là năm mà con số của năm chia hết cho 4, riêng đối với những năm chứa số nguyên thế kỉ (năm tròn thế kỉ) thì phải chia hết cho 400 (400 năm bỏ đi 3 lần nhuận để lịch vẫn chính xác theo chu kì của năm thiên văn).

Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời, từ Trái Đất nhìn bằng kính thiên văn về phía Mặt Trời, sẽ thấy Mặt Trời chuyển động biểu kiến trên thiên cầu thành một vòng tròn qua các chòm sao. Đường chuyển động biểu kiến của Mặt Trời trên thiên cầu được gọi là Hoàng đạo. Mặt phẳng chứa Hoàng đạo gọi là mặt phẳng Hoàng đạo (cũng chính là mặt phẳng chứa quỹ đạo chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời). Các nhà thiên văn học của nền văn minh Babylon cổ đại đã phát hiện ra các chòm sao trên thiên cầu và người Hi Lạp chia Hoàng đạo thành 12 cung tương ứng với thời gian Mặt Trời chuyển động biểu kiến qua các chòm sao. 12 cung đó, tính từ điểm giao cắt giữa Hoàng đạo và Xích đạo thiên cầu (thời điểm ngày 21/3) gồm: Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Xử Nữ, Thiên Bình, Bò cạp, Nhân Mã, Ma Kết, Bảo Bình, Song Ngư.

Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời đồng thời với sự vận động tự quay quanh trục Trái Đất, trục này nghiêng với mặt phẳng Hoàng đạo theo hướng không đổi một góc 66033’. Do vậy, mặt phẳng Hoàng đạo nghiêng với mặt phẳng Xích đạo của Trái Đất 23027’. Trong một năm, tia sáng Mặt Trời chỉ chiếu thẳng góc lần lượt xuống các vĩ tuyến từ 23027’N đến 23027’B rồi trở về 23027’N. Trên quỹ đạo chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời, có 4 điểm đặc biệt vào các ngày: 21 hoặc 22/12, Mặt Trời chiếu thẳng góc xuống chí tuyến Nam (23027’N); 21 hoặc 20/3, Mặt Trời chiếu thẳng góc xuống xích đạo; 22 hoặc 23/6, Mặt Trời chiếu thẳng góc xuống chí tuyến Bắc (23027’B); 23 hoặc 22/9, Mặt Trời chiếu thẳng góc xuống xích đạo. Các nhà thiên văn học Trung Quốc gọi các điểm đó lần lượt là Đông chí (giữa mùa đông), Xuân phân (giữa mùa xuân), Hạ chí (giữa mùa hạ), Thu phân (giữa mùa thu). Từ các điểm đặc biệt đó, người ta chia quỹ đạo chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời thành 12 cung đều nhau tương ứng với 12 cung trên Hoàng đạo, đặt tên theo các điểm đặc biệt và kiểu thời tiết đặc trưng của vùng cận nhiệt đới gió mùa ở Trung Quốc. Điểm bắt đầu của 1 cung (tiếp giáp giữa 2 cung) gọi là “trung khí”, điểm giữa cung gọi là “tiết khí”.

- Trung khí gồm: Đông chí, Đại hàn, Vũ thủy, Xuân phân, Cốc vũ, Tiểu mãn, Hạ chí, Đại thử, Xử thử, Thu phân, Sương giáng, Tiểu tuyết.

- Tiết khí gồm: Tiểu hàn, Lập xuân, Kinh trập, Thanh minh, Lập hạ, Mang chủng, Tiểu thử, Lập thu, Bạch lộ, Hàn lộ, Lập đông, Đại tuyết.

Tổng cộng có 24 tiết đan xen trung khí và tiết khí, giữa các tiết cách nhau 15 – 16 ngày. Các tiết này là những điểm định vị trên quỹ đạo chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời. Thời điểm Trái Đất đến mỗi điểm tiết được tính chính xác đến giờ, phút và rơi vào một ngày Dương lịch cố định (có thể lệch 1 ngày do thời điểm đó đến trước hoặc sau vài phút).

Trung khí và tiết khí trên quỹ đạo chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời

Quá trình chuyển động quanh Mặt Trời, trục Trái Đất nghiêng với mặt phẳng Hoàng đạo theo hướng không đổi 66033’. Điều đó làm cho độ dài ngày và đêm thay đổi theo mùa (trừ xích đạo), ánh sáng và nhiệt Mặt Trời phân bố không đều, luân phiên biến đổi giữa hai bán cầu Bắc và Nam, tạo ra các đới và mùa khí hậu trên Trái Đất. Các khối khí hình thành trên hành tinh Trái Đất cũng dịch chuyển theo mùa, tạo nên hoàn lưu khí quyển chi phối thời tiết các địa phương.

a. Vùng ôn đới có sự phân hoá bốn mùa rõ rệt:

- Từ 21/3 đến 22/6, Mặt Trời chuyển động biểu kiến từ Xích đạo lên chí tuyến Bắc. Thời gian Mặt Trời chiếu sáng ở bán cầu Bắc dài dần, tích luỹ nhiều nhiệt, trái lại bán cầu Nam giảm dần nhiệt và ánh sáng. Thời gian này là mùa xuân ở vùng ôn đới bán cầu Bắc, mùa thu ở vùng ôn đới bán cầu Nam.

- Từ 22/6 đến 23/9, Mặt Trời chuyển động biểu kiến từ chí tuyến Bắc về Xích đạo, bán cầu Bắc vẫn tiếp tục nhận được lượng nhiệt lớn từ bức xạ Mặt Trời, vùng vĩ độ cao của bán cầu Nam nhiệt độ vẫn thấp. Đây là thời kì mùa hạ ở vùng ôn đới bán cầu Bắc, mùa đông ở vùng ôn đới bán cầu Nam.

- Từ 23/9 đến 22/12, Mặt Trời chuyển động biểu kiến từ Xích đạo về chí tuyến Nam, các hiện tượng diễn ra trên hai bán cầu ngược với thời gian từ 21/3 đến 22/6, là mùa xuân ở vùng ôn đới bán cầu Nam, mùa thu ở vùng ôn đới bán cầu Bắc.

- Từ 22/12 đến 21/3 năm sau, Mặt Trời chuyển động biểu kiến từ chí tuyến Nam lên Xích đạo. Các hiện tượng tự nhiên trên hai bán cầu diễn ra ngược với thời gian từ 22/6 đến 23/9, là mùa hạ ở vùng ôn đới bán cầu Nam và mùa đông ở vùng ôn đới bán cầu Bắc.

b. Vùng nhiệt đới giữa hai chí tuyến, sự phân hoá bốn mùa không rõ rệt do bức xạ Mặt Trời lớn quanh năm. Vùng này chỉ phân biệt hai mùa là mùa lạnh và mùa nóng, hoặc mùa khô và mùa mưa (trừ vùng có khí hậu xích đạo nóng ẩm quanh năm).

c. Vùng cận nhiệt đới, nơi chuyển tiếp giữa khí hậu ôn đới và khí hậu nhiệt đới, tiếp nhận bức xạ Mặt Trời lớn hơn vùng ôn đới, nhỏ hơn vùng nhiệt đới; chịu sự tranh chấp của khối khí nhiệt đới và khối khí ôn đới nên các mùa khí hậu sớm hơn vùng ôn đới. Ví dụ tại bán cầu Bắc, ngày 21/3 là ngày giữa mùa xuân ở vùng cận nhiệt đới, mới là ngày đầu xuân ở vùng ôn đới, trình tự luân phiên các mùa ở vùng cận nhiệt đới sớm hơn khoảng 1,5 tháng.

Như vậy, mùa khí hậu và sự thay đổi thời tiết các mùa phụ thuộc vào vị trí của Trái Đất trên quỹ đạo chuyển động quanh Mặt Trời, hoàn lưu khí quyển và các điều kiện địa lí địa phương. Thời tiết và khí hậu mang tính tuần hoàn theo Dương lịch.